Gia quyến Đỗ_Độ

Thê thiếp

Đích Phu nhân

Hậu duệ

Con trai

  1. Đỗ Nhĩ Hỗ (杜爾祜; 24 tháng 10 năm 1615 - 1 tháng 5 năm 1655), mẹ là Nạp Lạt thị. Sơ phong Phụ quốc công. Năm 1642, tháng 6 thăng Trấn quốc công, tháng 10 bị cách tước, truất Tông thất. Năm 1645 khôi phục Tông thất, phục phong Phụ quốc công. Năm 1651 thăng Bối lặc, nhậm Nghị chính. Sau khi qua đời được truy thụy "Khác Hậu Bối lặc" (愨厚貝勒). Đích thê là Qua Nhĩ Giai thị, con gái của Phí Anh Đông. Có tám con trai.
  2. Mục Nhĩ Hỗ (穆爾祜; 1617 - 1654), mẹ là Nạp Lạt thị. Năm 1635 nhờ quân công được phong Phụ quốc công. Năm 1642 bị cách tước, truất Tông thất. Năm 1645 khôi phục Tông thất, phong Tam đẳng Trấn quốc Tướng quân, 1 năm sau tiến Nhất đẳng. Năm 1647 thăng Phụ quốc công. Năm 1649 nhờ quân công được thăng Bối tử. Năm 1654 bị luận tội cách tước. Có hai con trai.
  3. Đặc Nhĩ Hỗ (特爾怙; 1620 - 1658), mẹ là Nạp Lạt thị. Năm 1639, phong Phụ quốc công. Năm 1642 bị luận tội cách tước, truất Tông thất. Năm 1645 khôi phục Tông thất, phong Phụ quốc công, cùng năm thăng Bối tử. Sau khi qua đời được truy thụy "Khác Hi Bối tử" (恪僖貝子). Có năm con trai.
  4. Đặc Tấn (特遴; 1621 - 1638), mẹ là Nạp Lạt thị. Mất sớm, vô tự.
  5. Đặc Nhĩ Nhân (特爾親; 1622 - 1624), mẹ là Nạp Lạt thị. Chết yểu.
  6. Đỗ Nỗ Văn (杜努文; 1626 - 1648), mẹ là Nạp Lạt thị. Năm 1645 được phong Phụ quốc công. Sau khi qua đời được truy thụy "Hoài Mẫn". Năm 1698 được truy phong "Hoài Mẫn Bối tử" (懷愍貝子). Có một con trai duy nhất là Tô Nỗ vì phạm tội mà truất Tông thất, sau con cháu được ban "Hồng đái tử", phụ nhập vào cuối Ngọc điệp.
  7. Tát Bật (薩弼; 1628 - 1655), mẹ là Nạp Lạt thị. Năm 1642 bị truất Tông thất. Năm 1645 khôi phục Tông thất, phong Phụ quốc công. Năm 1649 tấn Bối tử. Sau khi qua đời được truy thụy "Hoài Mẫn Bối tử" (懷愍貝子).